Bối cảnh Trại_hủy_diệt_Treblinka

Xem thêm thông tin: Holocaust tại Ba Lan
Căn biệt thự này là địa điểm diễn ra hội nghị Wannsee, nơi vạch ra kế hoạch cho Chiến dịch Reinhard và trại hủy diệt Treblinka.

Sau cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939; khoảng 3,5 triệu người Do Thái Ba Lan đã bị Đức Quốc xã dồn vào những khu Do Thái (khu biệt lập) mới được thành lập. Việc làm này dự định nhằm cô lập người Do Thái với thế giới bên ngoài để dễ bề bóc lột và ngược đãi họ.[23] Người Do Thái rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn, với thức ăn không được cung cấp đầy đủ; điều kiện sống chật chội, mất vệ sinh; và họ không có cách nào có thể kiếm được tiền. Vấn nạn suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men dẫn đến tỉ lệ tử vong tăng cao.[24] Những chiến thắng đầu tiên của Wehrmacht[lower-alpha 4] trên lãnh thổ Liên Xô đã truyền cảm hứng cho kế hoạch thuộc địa hóa vùng lãnh thổ Ba Lan chiếm đóng, bao gồm toàn bộ địa bàn thuộc General Government[lower-alpha 5]. Tại hội nghị Wansee tổ chức ở một địa điểm gần Berlin vào ngày 20 tháng 1 năm 1942, những kế hoạch mới bàn về vấn đề diệt chủng người Do Thái được vạch ra, biết đến với tên gọi "Giải pháp cuối cùng".[25] Chương trình hủy diệt này mang mật danh Aktion Reinhard tại Đức,[lower-alpha 6] để phân biệt với các chiến dịch do Einsatzgruppen tiến hành tại những vùng lãnh thổ đã bị Đức Quốc xã chinh phục.[27]

Treblinka là một trong ba trại hành quyết bí mật được thiết lập nhằm phục vụ cho Chiến dịch Reinhard; hai trại kia là BelzecSobibór.[28] Cả ba trại đều được trang bị các phòng hơi ngạt ngụy trang dưới vỏ bọc phòng tắm. Những công cụ giết người được thành lập sau một dự án thí điểm giết người di động tại các trại SoldauChełmno, bắt đầu tiến hành vào năm 1941 và sử dụng các xe hơi ngạt. Trại Chełmno (tiếng Đức: Kulmhof) là địa điểm thử nghiệm các phương pháp giết người và tiêu hủy xác khác nhau nhằm tìm ra cách thức nào nhanh và hiệu quả nhất.[29] Hoạt động này không thuộc chiến dịch Reinhard - một kế hoạch đặc trưng bởi việc thành lập những cơ sở cố định phục vụ giết người quy mô lớn.[30] Treblinka là trại hủy diệt thứ ba của chiến dịch này được xây dựng, sau các trại Belzec và Sobibór, và nó là một sự lồng ghép những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình xây dựng hai trại trước.[31] Bên cạnh các trại thuộc chiến dịch Reinhard (gọi tắt là các trại Reinhard), những cơ sở giết người quy mô lớn sử dụng khí độc Zyklon B cũng đã được dựng lên tại trại tập trung Majdanek trong tháng 3[28]Auschwitz II-Birkenau trong tháng 9 năm 1942.[32]

SS-Obergruppenführer (Trung tướng SS) Odilo Globocnik, phụ tá của Reichsführer-SS (Thống chế SS) Heinrich Himmler ở Berlin, là người giám sát kế hoạch tiêu diệt người Do Thái của Đức Quốc xã trong Chiến dịch Reinhard tại địa bàn Ba Lan chiếm đóng thuộc vùng lãnh thổ General Government.[33] Hoạt động của những khu trại trong chiến dịch được báo cáo trực tiếp đến Cơ quan An ninh Trung ương Đế chế, với Himmler cũng là người đứng đầu cơ quan này. Các nhân viên, sĩ quan tham gia Chiến dịch Reinhard, hầu hết trong số họ từng tham gia chương trình cái chết êm ái T4,[34] đã áp dụng T4 như một bộ khung cho việc thành lập nên các cơ sở giết người.[35] Tất cả những người Do Thái bị tiêu diệt trong các trại Reinhard đều đến từ các khu Do Thái.[36]

Treblinka trên bản đồ các trại hành quyết của Đức Quốc xã tại vùng lãnh thổ Ba Lan chiếm đóng (biểu tượng đánh dấu là các đầu lâu trắng hoặc trắng trên nền đen)

Vị trí

Hai trại Treblinka song song được xây tại địa điểm cách thủ đô Warsaw của Ba Lan khoảng 80 km (50 dặm) về phía Đông Bắc.[37][38] Trước thế chiến thứ II, vùng này là địa bàn của một doanh nghiệp khai thác sỏi sản xuất bê tông, một vị trí kết nối đến hầu khắp các thành phố lớn ở miền Trung Ba Lan với tuyến đường sắt MałkiniaSokołów Podlaski, và đến nhà ga làng Treblinka. Chủ sở hữu và điều hành các mỏ khai thác là nhà tư bản công nghiệp người Ba Lan Marian Łopuszyński, ông đã cho xây thêm 6 km (3,7 dặm) đường ray vào tuyến hiện có.[39] Khi lực lượng SS tiếp quản Treblinka I, mỏ khai thác đá đã sẵn được trang bị các máy móc hạng nặng và chúng cũng trong tình trạng sẵn sàng để sử dụng.[40] Dù kết nối được đến nhiều nơi nhưng Treblinka cũng đủ mức độ cô lập,[lower-alpha 7][41] và nó nằm giữa một vài khu Do Thái lớn nhất tại các quốc gia châu Âu bị chiếm đóng, bao gồm khu ở Warsawkhu ở Białystok, thủ đô của đơn vị hành chính mới Bezirk Bialystok. Khu Do Thái Warsaw có 500.000 người Do Thái cư trú[42] và khu Białystok có 60.000 người.[43]

Treblinka được phân làm hai trại riêng biệt nằm cách nhau 2 km. Hai công ty xây dựng: công ty Schoenbronn Leipzig và chi nhánh Warsaw của Schmidt–Munstermann, giám sát quá trình thi công trại.[1] Trong khoảng giữa 1942 và 1943 trung tâm hành quyết được tái phát triển hơn nữa với một chiếc máy xúc đất. Các phòng hơi ngạt mới được dựng nên từ gạch và vữa xi măng vẫn còn tươi, đồng thời các giàn thiêu lớn cũng đã được đưa vào giới thiệu.[44] Chu vi xung quanh trại được mở rộng nhằm tạo ra một khoảng trống, làm tăng mức độ cách ly và ngăn không cho tiếp cận từ bên ngoài. Số lượng các chuyến tàu đã gây nên sự hoang mang cho những người dân sống ở các khu dân cư gần đó.[14] Họ có thể bị giết nếu bị bắt gặp lảng vảng gần những tuyến đường ray tàu hỏa.[45]

Treblinka I

Chính thức thành lập vào ngày 15 tháng 11 năm 1941,[lower-alpha 8][47] Treblinka I là một trại lao động khổ sai (Arbeitslager) mà ban đầu dành cho những người Ba Lan và Do Thái bị bắt giữ gần đó. Trại này thay thế vị trí của một công ty không theo thể thức thành lập vào tháng 6 năm 1941 bởi Sturmbannführer (Thiếu tá SS) Ernst Gramss. Vào cuối năm 1941, một doanh trại mới với hàng rào thép gai cao 2 mét (6 ft 7 in) được dựng lên.[48] Một bản án có chiều dài trung bình khoảng sáu tháng, nhưng với nhiều tù nhân nó đã bị gia tăng lên thành vô thời hạn. Trong ba năm tồn tại của mình, Treblinka I đã chứng kiến 20.000 người di chuyển đến. Khoảng một nửa trong số đó đã chết vì đói, bệnh tật và kiệt sức.[49] Những người sống sót được thả sau khi hoàn thành bản án, nhìn chung họ là những người Ba Lan đến từ các ngôi làng ở gần đó.[50]

Thông báo chính thức về việc thành lập trại lao động khổ sai Treblinka I

Ở mọi thời điểm, Treblinka luôn có một lực lượng lao động từ 1.000 đến 2.000 tù nhân,[48] hầu hết bọn họ phải làm việc từ 12 đến 14 tiếng/ngày không cố định khung giờ trong các mỏ khai thác lớn và sau này là đi lấy gỗ từ các khu rừng gần đó làm nhiên liệu cho các lò thiêu xác ngoài trời ở Treblinka II.[51] Thành phần tù nhân bao gồm những người Do Thái Pháp, Séc và Đức, và những người Ba Lan bị bắt giữ tại các łapanka,[lower-alpha 9] những người nông dân không thể phục vụ lệnh cung cấp lương thực, con tin ngẫu nhiên bị bắt giữ, và những ai chứa chấp người Do Thái bên ngoài các khu Do Thái hoặc những người không có giấy phép bị hạn chế hành động. Bắt đầu từ thời điểm tháng 7 năm 1942, người Do Thái bị phân riêng thành một nhóm tách ra khỏi những người không phải Do Thái. Phụ nữ chủ yếu làm việc trong những doanh trại phân loại, họ chỉnh sửa và giặt sạch các bộ quân phục được chuyển giao bởi các chuyến tàu,[49] trong khi hầu hết nam giới phải lao động trong các khu mỏ. Các tù nhân không được trao đồng phục khi làm việc, họ còn bị tước mất đôi giày và buộc phải đi chân trần hoặc đi vơ vét chúng từ những tù nhân đã chết. Nước được chia theo khẩu phần, và những hình phạt thường xuyên được phân phát bằng cách điểm danh. Từ tháng 12 năm 1943 các tù nhân không còn phải gánh vác bản án đặc biệt nào. Trại hoạt động chính thức cho đến ngày 23 tháng 7 năm 1944, thời điểm Hồng quân Liên Xô sắp sửa tiến đến.[49]

Chỉ huy của trại Treblinka I trong toàn bộ quãng thời gian hoạt động là Sturmbannführer (Thiếu tá SS) Theodor van Eupen.[48] Eupen tiếp nhận khu trại cùng với một vài lính SS và gần 100 lính bảo vệ Hiwi. Khu mỏ khai thác đá trải rộng trên một diện tích 17 hécta (42 mẫu Anh) là nguồn cung cấp vật liệu xây dựng cho quân Đức và là một phần của chương trình xây dựng tuyến đường chiến lược trong chiến tranh với Liên Xô. Một máy xúc đất cơ khí được trang bị và chia sẻ cho hai trại Treblinka I và II cùng sử dụng. Eupen làm việc gần gũi với các chỉ huy cảnh sát Đức tại Warsaw và SS trong hoạt động trục xuất người Do Thái vào đầu năm 1943 và khi cần thay thế luôn có những tù nhân mới được mang đến từ các khu Do Thái. Theo như Franciszek Ząbecki, trưởng ga đường sắt địa phương, Eupen thường giết tù nhân bằng cách "bắn như thể họ là những con gà gô". Ngoài ra còn có một người giám sát nổi tiếng đáng sợ đó là Untersturmführer (Thiếu úy SS) Franz Schwarz, người thường hành quyết các tù nhân bằng một cái cuốc hoặc búa.[53]

Treblinka II

Khu tưởng niệm tại Treblinka II, với 17.000 phiến đá biểu trưng cho những tấm bia mộ.[22] Các chữ khắc chỉ ra địa điểm khởi hành của những chuyến tàu tử thần và các khu Do Thái được lựa chọn trên khắp Ba Lan.

Treblinka II (tên chính thức SS-Sonderkommando Treblinka) được chia làm ba bộ phận: trại 1 là khu hành chính hỗn hợp nơi ở của các lính canh, trại 2 là khu vực tiếp nhận những tù nhân được chuyển đến, và trại 3 là địa điểm các phòng hơi ngạt.[lower-alpha 10] Cả ba trại này đều được xây dựng bởi những nhóm người Do Thái Đức bị trục xuất khỏi Berlin và bị giam tại khu Do thái Warsaw (tổng cộng là nam giới 238 người độ tuổi từ 17 đến 35).[55] Hauptsturmführer (Đại úy SS) Richard Thomalla, người chỉ huy việc thi công, đã lựa chọn những người Do Thái Đức vì họ biết tiếng Đức. Việc xây dựng bắt đầu tiến hành từ ngày 10 tháng 4 năm 1942,[55] thời điểm mà hai trại Bełżec và Sobibór đã đi vào hoạt động.[56] Toàn bộ trại tử thần có diện tích 17 hécta (42 mẫu Anh)[55] hoặc là 13,5 hécta (33 mẫu Anh) (các nguồn khác nhau),[57] bao quanh bởi hai hàng rào dây thép gai có chiều cao 2,5 mét (8 ft 2 in). Hàng rào này sau đó đã được đan xen với những cành cây thông để làm giảm tầm nhìn từ bên ngoài.[58] Số lượng người Do Thái được đưa đến từ những khu định cư xung quanh tăng lên để phục vụ cho đoạn đường sắt mới trong khu tiếp nhận của trại 2, công việc hoàn thành vào tháng 6 năm 1942.[55]

Phân khu đầu tiên của Treblinka II, Trại 1, là tổ hợp khu hành chính và nhà ở Wohnlager; nơi đây có một tuyến điện thoại liên lạc. Con đường chính bên trong trại được lát đá mang tên Seidel Straße,[lower-alpha 11] đặt dựa theo tên của người giám sát hoạt động xây dựng nó, Unterscharführer (Trung sĩ SS) Kurt Seidel. Ngoài ra còn một vài con đường phụ được lát sỏi. Cổng chính cho giao thông đường bộ được dựng lên ở phía Bắc.[59] Các doanh trại được xây bởi những nguyên vật liệu cung cấp từ Warsaw, Sokołów Podlaski, và Kosów Lacki. Trại có một nhà bếp, một lò bánh, và các phòng ăn, tất cả đều được trang bị những đồ dùng chất lượng cao lấy từ các khu Do Thái.[55] Những người Đức và Ukraina đều có chỗ ngủ riêng, vị trí ở các góc để kiểm soát tốt hơn mọi lối vào. Ngoài ra còn có hai doanh trại phía sau một hàng rào bên trong cho các lao động người Do Thái. SS-Untersturmführer (Thiếu úy SS) Kurt Franz đã cho xây một vườn thú nhỏ ở vị trí trung tâm bên cạnh chuồng ngựa của mình, trong đó có hai con cáo, hai con công và một con hoẵng châu Âu (mang đến năm 1943).[59] Ngoài ra còn các phòng nhỏ hơn như phòng giặt ủi, may, làm giầy, chế biến gỗ, và y tế. Nằm gần các doanh trại SS nhất là những khu nhà ở riêng cho người phục vụ Ba Lan và Ukraina, những phụ nữ phụ trách việc nấu nướng và dọn dẹp.[59]

Một bức ảnh chụp Treblinka II từ trên cao vào năm 1944 sau khi đã lược bỏ những chi tiết không quan trọng. Ngôi nhà trong trang trại và khu nhà chăn nuôi gia súc mới có thể nhìn thấy ở góc dưới bên trái.[60] Những công trình đã bị tháo dỡ được đánh dấu bằng đường màu đỏ và da cam. Ở phía trái là khu của lính SS và Hiwi (1) với các doanh trại được xác định bởi những lối đi xung quanh. Phía dưới bên phải (2) là đoạn đường ray vào trong trại và sân ga (giữa), đánh dấu bằng mũi tên màu đỏ. "Đường đến thiên đàng" được thể hiện bằng đường đứt nét. Hai hình chữ nhật là hai doanh trại dành cho nam và nữ trút bỏ quần áo, bao quanh là một hàng rào kín kẽ mà bên ngoài không thể nhìn vào. Vị trí của phòng hơi ngạt lớn, mới (3) được đánh dấu X. Các hố chôn được đào lên bằng một cái máy xúc được đánh dấu màu vàng nhạt.

Bộ phận thứ hai của Treblinka II (Trại 2, còn được gọi là trại dưới hay Auffanglager), là khu vực tiếp nhận tù nhân, nơi có đoạn đường ray mở rộng từ ranh giới phía ngoài vào bên trong trại.[61][62] Một tòa nhà mới được dựng lên và ngụy trang giống như một nhà ga hoàn chỉnh với một chiếc đồng hồ gỗ và các biển báo ga cuối giả. SS-Scharführer (Tổ trưởng) Josef Hirtreiter phụ trách công việc tại sân ga được nhớ đến là một người đặc biệt tàn nhẫn; ông ta thường túm lấy đôi chân của những đứa trẻ và đập đầu chúng vào các toa tàu.[63] Phía sau lớp hàng rào thứ hai, cách đường ray khoảng 100 mét (330 ft), là hai doanh trại dài nơi các tù nhân buộc phải cởi đồ, tại đó có một gian thu hồi tiền bạc và đồ trang sức, với vẻ bề ngoài là giữ hộ cho an toàn.[64] Người Do Thái nào từ chối sẽ bị cướp lấy tư trang hoặc bị lính bảo vệ đánh cho đến chết. Ngoài ra phụ nữ và trẻ em còn bị cạo trọc tại một khu vực ở phía bên kia chỗ của nam giới. Tất cả những tòa nhà ở trại dưới, bao gồm cả nơi của những thợ cắt tóc, đều chất đống quần áo và đồ đạc của tù nhân.[64] Xa hơn về phía bên phải là một bệnh viện giả gọi là "Lazaret" với biểu tượng Chữ thập Đỏ. Đó là một doanh trại nhỏ bao quanh bởi hàng rào thép gai nơi những tù nhân ốm đau, già, bị thương và tỏ vẻ "khó khăn" được đưa tới.[64] Ngay sau tòa nhà "Lazaret" là một cái hố nhân tạo sâu 7 m. Những tù nhân được dẫn tới đứng bên miệng hố[65], sau đó bị Blockführer Willi Mentz, người được những người tù đặt biệt danh "Frankenstein", bắn đồng loạt.[64] Mentz đã một tay hành quyết hàng ngàn người Do Thái[66] với sự trợ giúp từ người giám sát của mình, August Miete, biệt danh "Angel of Death" (Thiên sứ của Thần chết) từ các tù nhân.[67] Cái hố còn dùng để đốt những giấy tờ tùy thân mới được gửi đến từ khu cởi đồ.[62][64]

Bộ phận thứ ba của Treblinka II (Trại 3, còn gọi là trại trên) là địa điểm hành quyết chính với các phòng hơi ngạt ở trung tâm.[68] Khu vực này được che chắn hoàn toàn khỏi tuyến đường ray bởi một bờ đất dựng lên nhờ sự trợ giúp của máy xúc đất. Gò đất này có hình dạng thuôn dài, tương tự như một bức tường chắn, và có thể thấy trên bản phác thảo tại phiên tòa xét xử chỉ huy trại Treblinka II Franz Stangl năm 1967. Mặt khác, vùng này còn được ngụy trang giống như những nơi khác trong trại, với một nhóm tù nhân lao động gọi là Tarnungskommando (đội ngụy trang) sử dụng những cành cây đan xen kẽ vào hàng rào dây thép gai.[1][69] Từ khu doanh trại cởi quần áo có một con đường dẫn rào kín hai bên xuyên qua vùng rừng đến các phòng hơi ngạt[68] mà lính SS gọi là die Himmelstraße ("đường đến thiên đàng")[70] hay der Schlauch ("the tube": cái ống).[71] Trong tám tháng đầu tiên hoạt động, tồn tại những con mương với chiều dài 50 mét (160 ft), rộng 25 mét (82 ft), và sâu 10 mét (33 ft) ở hai bên phòng hơi ngạt.[1] Vào đầu năm 1943, chúng được thay thế bằng các giàn thiêu có chiều dài 30 mét (98 ft), với đường ray đặt trên những khối bê tông chạy qua hố. 300 tù nhân làm việc tại trại này sống ở những doanh trại riêng biệt phía sau các phòng hơi ngạt.[72]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trại_hủy_diệt_Treblinka http://www.amazon.ca/The-Rise-Fall-Third-Reich/dp/... http://www.amazon.ca/dp/0805250085 http://cantic.bnc.cat/registres/CUCId/a11823896 http://www.raco.cat/index.php/HMiC/article/downloa... http://www.cympm.com/treblinka.html http://dl.dropbox.com/u/47875651/TheHellOfTreblink... http://echomatkibozejniepokalaniepoczetej.com/embn... http://www.huffingtonpost.com/2014/03/31/nazi-deat... http://www.inquisitr.com/301237/when-god-went-on-h... http://www.israelnationalnews.com/News/News.aspx/1...